Bài thuốc trị mụn nhọt mùa nóng

Mụn là bệnh do nang lông - tuyến bã ở da hoạt động thái quá làm tiết nhiều bã nhờn trong khi miệng nang lông lại bị bít kín do tăng sừng hóa, chất bã nhờn bị ứ đọng lại ở lỗ chân lông tạo thành nhân mụn. Khi nhân mụn thành hình, thường có sự phát triển, tăng sinh một loại vi khuẩn ở lỗ chân lông gây nên tình trạng viêm đỏ của mụn mủ.

Theo y học cổ truyền, mụn nhọt là do hỏa độc gây ra, một số trường hợp hay tái phát do tình trạng nhiễm khuẩn mà y học cổ truyền gọi là nhiệt huyết.

Bài thuốc trị mụn nhọt mùa nóng 1Mùa nóng, trẻ em dễ bị mụn nhọt.

Khi mụn nhọt phát sinh có các triệu chứng: tại chỗ có sưng, nóng, đỏ, đau, toàn thân có kèm theo sốt, mạch nhanh, rêu lưỡi trắng dày. Nếu không chữa hoặc không chữa khỏi sẽ thành ổ mủ, dần dần vỡ mủ (nếu mụn nhọt dưới da dày thì khó vỡ mủ) rồi liền da thành sẹo.

Ứng với mỗi giai đoạn, có bài thuốc riêng để điều trị.

Giai đoạn viêm nhiễm (khởi phát): mụn nhỏ hình thành, ngứa, nóng, muốn gãi, giai đoạn này dùng phương pháp thanh nhiệt giải độc, tiêu viêm.

Bài thuốc: kinh giới 8g, kim ngân hoa 20g, ké đầu ngựa 16g, thổ phục linh 12g, đỗ đen sao 40g, cam thảo dây 8g, vòi voi 12g, cỏ xước 12g, cho 750ml nước vào sắc kỹ còn 250ml chia uống 3 lần trong ngày.

Giai đoạn hóa mủ: mụn sưng tấy thành nhọt bọc có mủ, nóng, đỏ, sốt. Dùng phương pháp thác độc bài nùng (đưa độc ra ngoài, trừ mủ).

Bài thuốc: kim ngân hoa 20g, liên kiều 12g, hoàng cầm 12g, gai bồ kết (tạo giác) 12g, bồ công anh 16g, trần bì 6g, bối mẫu 8g, cam thảo 4g. Cho 750ml nước sắc kỹ còn 250ml chia uống 3 lần trong ngày.

Giai đoạn vỡ mủ: dùng phương pháp khử hư sinh cơ (làm mất các tổ chức hoại tử, làm liền da).

Bài thuốc: uất kim 16g, đương quy 12g, hoàng kỳ 16g, sinh địa 12g, huyền sâm 12g, đan bì 8g, đảng sâm 16g, kim ngân hoa 16g, cam thảo 6g. Cho 750ml nước vào sắc kỹ còn 250ml chia uống 3 lần trong ngày.

Giai đoạn vỡ mủ phải thường xuyên rửa sạch, lau khô bằng gạc vô khuẩn để tránh tái nhiễm, nhiễm khuẩn.

Lương y Vũ Quốc Trung

MERS lây lan mạnh, Tổng thống Park Geun Hye trấn an người dânMERS lây lan mạnh, Tổng thống Park Geun Hye trấn an người dânNhững thực phẩm cực tốt trẻ ăn nhiều sẽ thông minhNhững thực phẩm cực tốt trẻ ăn nhiều sẽ thông minhBối rối với 1.000 hồ sơ đạt điểm giỏi 100/100Bối rối với 1.000 hồ sơ đạt điểm giỏi 100/100

Những món ăn có ích cho người bị viêm xoang mũi

Viêm xoang mũi thường được chia làm 2 loại: Viêm xoang mũi cấp tính và viêm xoang mũi mạn tính. Đông y có những món ăn giúp người bị viêm xoang mũi cải thịên triệu chứng nâng cao thể trạng.

Món ăn cho người bị viêm xoang mũi cấp tính

Người bệnh có đặc điểm là thời gian mắc bệnh ngắn, nước mũi chảy nhiều, đau đầu, phát sốt, khứu giác bị suy giảm. Thường thuộc nhiệt chứng, thực chứng.

Nguyên nhân thường do cảm nhiễm phong nhiệt, cảm nhiễm thấp nhiệt gây nên. Ngoài ra, do môi trường sống ngày càng bị ô nhiễm, cũng là yếu tố gây ra viêm xoang mũi, số người mắc bệnh viêm xoang mũi ngày càng tăng.

Viêm xoang mũi cấp tính được chia thành 3 thể bệnh phong nhiệt, nhiệt thịnh, thấp nhiệt.

Thể phong nhiệt:

Các triệu chứng thường gặp: mũi nghẹt, chảy nhiều nước mũi có màu trắng nhầy hoặc vàng, đau đầu, sốt, sợ lạnh, chất lưỡi hơi đỏ, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc vàng mỏng.

Nên dùng các thực phẩm có tác dụng trừ phong, thanh nhiệt, thông mũi, như: rau húng dũi, bạc hà, sắn dây, hoa cúc, lá dâu tằm.

Những món ăn có ích cho người bị viêm xoang mũi 1

Trà hoa cúc thanh nhiệt, thông mũi, hạ huyết áp...

Trà hoa cúc:

Nguyên liệu: hoa cúc khô 10 - 12g.

Cách làm: hoa cúc bỏ cuống, rửa sạch. Bỏ hoa cúc vào bình ngâm với 100ml nước sôi, chừng 10 phút là được. Uống thay nước trà.

Thức uống này có tác dụng trừ phong, thanh nhiệt, thông mũi, sáng mắt, hạ huyết áp.

Trà hoa cúc, lá dâu:

Nguyên liệu: hoa cúc 8 - 10g, lá dâu tằm 8g.

Cách làm: hoa cúc, lá dâu bỏ cuống, rửa sạch. Bỏ hoa cúc, lá dâu vào bình, ngâm với 150ml nước sôi, chừng 10 phút là được. Uống thay nước trà.

Thức uống này có tác dụng trừ phong, thanh nhiệt, thông mũi, sáng mắt, hạ huyết áp.

Trà sắn dây, kim ngân hoa:

Nguyên liệu: sắn dây khô 12 - 16g, kim ngân hoa khô 10g, đường phèn 5g.

Cách làm: kim ngân hoa rửa sạch, sắn dây rửa sạch, cắt nhỏ. Cho tất cả vào nồi với 200ml nước, nấu sôi bằng lửa nhỏ chừng 10 phút là được. Uống mỗi ngày thay trà.

Thức uống này có tác dụng thanh nhiệt giải độc, thông mũi.

Thể nhiệt thịnh:

Các triệu chứng thường gặp: mũi nghẹt, nước mũi đặc, có màu vàng, mùi hôi, niêm mạc mũi sưng đỏ, giảm khứu giác, đau đầu nhiều, sốt, miệng khô đắng, người nóng bứt rứt, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô.

Nên dùng những thực phẩm có tác dụng trừ nhiệt (ở kinh Đởm), lợi thủy, thông mũi, như : atisô, mướp đắng, bí đao, cà chua, cải ngọt, mã đề, rau má, rau đắng, rau diếp quăn, cải xoong, đậu xanh, hoa cúc, bông súng, rau nhút, sương sâm, sương sáo, rau câu.

Nước cà chua - rau cần tây:

Nguyên liệu: cà chua 1 trái lớn, rau cần tây 100g, nước chanh vắt 1 muỗng, nước sôi để nguội 100ml.

Cách làm: cà chua rửa sạch, cắt miếng nhỏ. Rau cần tây rửa sạch, cắt từng đoạn ngắn. Cho cà chua, rau cần tây vào máy xay sinh tố cùng với nước để xay nhuyễn. Sau khi xay, thêm nước chanh vắt để uống.

Công dụng: bổ dưỡng, an thần, dịu thần kinh, có ích cho người bị viêm xoang mũi, thần kinh bị căng thẳng, ho lâu ngày, ăn uống không tiêu, suy nhược cơ thể, cao huyết áp, người nóng bứt rứt, đi cầu táo, tiểu vàng, đau nhức các khớp do phong thấp (những trường hợp không bị đái tháo đường có thể thêm ít đường hoặc mật ong cho dễ uống).

Thể thấp nhiệt:

Các triệu chứng thường gặp: mũi chảy nhiều nước mũi vàng đục, nghẹt mũi kéo dài, niêm mạc mũi sưng đỏ, giảm khứu giác, nặng đầu, ngực tức, bụng đầy, chán ăn, nước tiểu vàng, cơ thể mệt mỏi, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhầy.

Nên dùng những thực phẩm có tác dụng trừ nhiệt, trừ thấp, lợi thủy, thông mũi như: rau diếp cá, đậu ván, sắn dây, râu bắp, bắp, rễ tranh, mã đề, bông súng, củ sen, cải bẹ xanh, cải bông, rau mồng tơi, rau bù ngót, rau sam, rau cần tây, trái su su, trái thơm.

Nước ép rau hỗn hợp:

Nguyên liệu: rau cần tây 50g, rau diếp quắn 100g, bắp cải 100g, ba thứ rửa sạch, thái nhỏ. Ớt tây một trái xắt nhỏ. Chuối chín một trái (chuối xiêm hay chuối già đều được) xắt nhỏ.

Cách làm: cho tất cả vào máy xay, ép lấy nước, chia 2 - 3 lần uống trong ngày, vào lúc đói bụng.

Món ăn này có tác dụng làm êm dịu thần kinh, rất tốt cho người bị viêm xoang mũi, ho đàm, di tinh, mất ngủ do tình trạng thần kinh dễ bị kích động.

Cháo đậu đỏ, bắp:

Nguyên liệu: gạo lứt 80g, đậu đỏ 50g, bắp 50g.

Cách làm: nấu tất cả thành cháo nhừ. Mỗi ngày ăn 1 lần vào lúc đói bụng.

Món cháo này có tác dụng lợi thủy trừ thấp, hạ huyết áp. Thích hợp với người bị viêm xoang mũi, bệnh cao huyết áp.

Món ăn cho người bị viêm xoang mũi mạn tính

Viêm xoang mũi cấp tính thường do viêm xoang cấp tính không được điều trị kịp thời hoặc điều trị không triệt để, lâu ngày chuyển thành mạn tính. Thường thuộc hàn chứng, hư chứng.

Viêm xoang mũi mạn tính được chia thành 2 thể bệnh phế khí suy hư; tỳ khí suy hư.

- Thể phế khí suy hư:

Các triệu chứng thường gặp: nghẹt mũi, chảy nhiều nước mũi trắng nhầy, niêm mạc mũi dày, gặp lạnh càng nặng hơn, đau đầu, chóng mặt, thở ngắn, tay chân lạnh, người mệt mỏi, không có sức, chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng mỏng.

Nên dùng những thực phẩm có tác dụng làm ấm phổi, bổ phế, trừ phong, trừ hàn, thông mũi như: gừng tươi, củ hành, hành tây, củ sả, rau hẹ, rau kinh giới, rau húng quế, tía tô, bạc hà, hoắc hương, rau diếp cá.

Canh tôm, củ cải trắng:

Nguyên liệu: củ cải trắng 150g, đậu hủ 100g, tôm đất 100g, giá đậu xanh 50g, gừng 3g, hành 5g, tỏi 5g, dầu ăn 30g, muối một ít.

Cách làm: cải trắng rửa sạch, cắt miếng, giá đậu xanh rửa sạch, bỏ rễ, đậu phụ rửa sạch, cắt miếng vuông, tôm rửa sạch, gừng cắt lát, hành cắt khúc, tỏi bỏ vỏ cắt lát.

Để nồi nóng đổ dầu vào, khử gừng, hành cho thơm, đổ nước vào nấu sôi với của cải trắng bằng lửa lớn. Sau đó cho các thứ còn lại vào nấu bằng lửa nhỏ cho chín. Mỗi ngày ăn 1 lần, ăn cả cái lẫn nước.

Món ăn này có tác dụng thanh nhiệt giải độc, bổ phế, ích khí, thích hợp với người bị viêm xoang mũi, suy nhược cơ thể do phế khí suy hư.

Trà củ sen, nho, mía, củ năng:

Nguyên liệu: củ sen 200g, củ năng 200g, lê 200g, mía 1 khúc 1kg, nho 200g, mật ong 100g.

Cách làm: củ sen, lê, củ năng, nho, rửa sạch, cho vào máy ép vắt lấy nước; mía cắt khúc, ép lấy nước, hoà 2 thứ nước lại, cho thêm mật ong vào.

Nấu sôi với lửa lớn, sau đó vặn lửa nhỏ, nấu đến khi nước hơi sệt lại. Cất vào lọ thủy tinh. Khi uống pha thêm chút nước nóng, ngày uống 2 lần trong lúc bụng đói, mỗi lần uống khoảng 50ml.

Công dụng: món ăn này có tác dụng thanh nhiệt giải độc, bổ phế, ích khí tiêu đàm, thông mũi, thích hợp với người bị viêm xoang mũi, suy nhược cơ thể, ăn uống kém, mất ngủ.

Thể tỳ khí suy hư:

Các triệu chứng thường gặp: nghẹt mũi nặng, chảy nhiều nước mũi trắng dính hoặc vàng đặc, niêm mạc mũi dày, chóng mặt, thở ngắn, ăn uống kém, bụng đầy, tiêu lỏng, tay chân nặng nề, người mệt mỏi, chất lưỡi bệu, rêu lưỡi trắng mỏng.

Nên dùng những thực phẩm có tác dụng kiện tỳ, ích khí, lợi thủy, trừ thấp, thông mũi như: ý dĩ, củ nghệ vàng, khoai mài, củ từ, hạt sen, củ sen, đậu ván, đậu đỏ, tàu hủ ky, đậu hủ, rau diếp cá, rau sam, bắp, gạo lứt, sắn dây, khoai lang bí, khoai mỡ, khoai tía, khoai sọ, khoai tây, cà rốt, bí đỏ, củ dền.

Trà rau cần, táo đỏ:

Nguyên liệu: trà ngon 3g, rau cần tây 150g, táo đỏ 2 trái.

Cách làm:rau cần tây rửa sạch cắt nhỏ, táo đỏ rửa sạch bỏ hột. Cho tất cả vào nồi nấu với 1lít nước, sắc còn 750ml, uống thay nước trà trong ngày.

Trà này làm êm dịu thần kinh, an thần. Thức uống này thích hợp với người bị viêm xoang mũi, suy nhược thần kinh, ăn uống kém, mất ngủ, tăng huyết áp.

Cháo gạo lứt, cà dái dê tím:

Nguyên liệu: gạo lứt 80g, cà dái dê tím 50g, khoai mài (hoài sơn) 50g.

Cách làm: cà rửa sạch cắt miếng; khoai mài ngâm mềm, cắt miếng; gạo vo sạch. Cho các thứ trên vào nồi nấu thành cháo. Trước tiên dùng lửa lớn nấu sôi, sau đó vặn lửa nhỏ nấu thêm 30 phút. Ăn mỗi ngày 1 lần.

Món cháo này có tác dụng bổ tỳ vị, ích khí huyết, có ích cho người bị viêm xoang mũi mạn tính, người bị cao huyết áp.

Lương y ĐINH CÔNG BẢY

Ăn, uống gì để chống nóng?

Thời tiết nóng bức, quá trình trao đổi chất trong cơ thể con người diễn ra mạnh mẽ, dương khí phát ra ngoài, âm khí tiềm phục ở trong. Các lỗ chân lông giãn rộng, mồ hôi tiết ra nhiều để điều hòa thân nhiệt nhưng cũng vì thế mà tà khí dễ xâm nhập vào trong. Hệ thống mao mạch ngoại vi cũng giãn ra, khí huyết lưu thông nhanh và mạnh hơn. Công năng của tỳ vị có xu hướng suy giảm vì nóng bức uống nhiều làm cho dịch vị bị pha loãng, quá trình tiêu hóa và hấp thu thức ăn dễ bị rối loạn. Bởi vậy, cổ nhân khuyên rằng: mùa hạ nên ăn những thức ăn thanh đạm, hạn chế đồ béo bổ, chiên xào, sống lạnh để giảm bớt gánh nặng cho tỳ vị.

Canh hến thanh nhiệt mùa hè.

Nóng ẩm cũng là điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật phát triển mạnh làm cho thực phẩm dễ ôi thiu, biến chất, trong khi đó vì uống nhiều nước dịch dạ dày bị pha loãng nên khả năng sát trùng giảm thấp càng làm cho nguy cơ ngộ độc thức ăn tăng cao. Bởi vậy, để dự phòng “bệnh từ miệng” cần chú ý giữ gìn vệ sinh ăn uống, không dùng thực phẩm ôi thiu, không uống nước lã, nước bẩn, rau quả tươi phải được rửa thật sạch... Vậy, nên ăn gì để chống nóng và phòng ngừa bệnh tật?

Thứ nhất, nên chú trọng dùng nhiều đồ ăn thức uống có tác dụng thanh nhiệt giải thử, lợi niệu trừ thấp: về thực vật như dưa hấu, dưa chuột, dưa gang, dưa bở, dưa lê, cam, quýt, chuối tiêu, trám, mướp đắng, mướp, bầu, bí đao, củ cải, súp lơ, rau đay, mùng tơi, rau dền, củ đậu, mã thầy, ngó sen, cà chua, đậu xanh, đậu đen, bạch biển đậu, xích tiểu đậu, cháo ngũ đậu, cháo ý dĩ, cháo đậu xanh, cháo biển đậu, cháo lá sen, trà nhân trần, trà hoa cúc, trà nụ hoặc lá vối, trà actiso, trà khổ qua...; về động vật như thịt vịt, cua, ốc, hến, trai, sò, ngao, hàu... Nên tránh hoặc hạn chế dùng các thực phẩm có tính nhiệt như thịt dê, thịt chó, thịt hoẵng, thịt chim sẻ, long nhãn, vải, hẹ, hành tây, hạt tiêu, nhục quế, gừng, đại hồi, lạc rang, rượu trắng... Những ngày quá nóng bức có thể dùng một chút nước ướp lạnh hoặc nước đá để giúp cơ thể giải nhiệt nhưng không được dùng nhiều để tránh làm thương tổn tỳ vị, tạo điều kiện cho thấp tà gây bệnh bên trong. Khi mồ hôi ra nhiều phải chú ý bổ sung đủ lượng nước đã mất bằng đường ăn uống bằng cách trọng dụng những đồ ăn thức uống có công dụng thanh nhiệt dưỡng âm, sinh tân chỉ khát như thạch đen, chè đậu đen, trà mạch môn, nước ép quả lê, nước ép ngó sen, nước ép mã thầy, nước mơ, nước mận, nước dâu, nước mía, trà bát bảo, trà sắn dây...

Ngoài việc thanh nhiệt giải thử và dưỡng âm, ăn uống trong mùa hạ nóng bức còn phải hết sức chú ý tránh làm thương tổn tỳ vị. Vậy nên, các thực phẩm có công dụng phương hương tỉnh tỳ, kiện tỳ hóa thấp, giải thử, trực tiếp hoặc gián tiếp giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động của tỳ vị cũng nên được trọng dụng. Ví như các loại cháo chế từ đậu xanh, đậu cô-ve, bạch biển đậu, ý dĩ, hạt sen, củ mài...; các loại trà hoắc hương, trà nụ vối, trà hương nhu, trà lá sen, trà actiso, trà nhân trần... Nên chú ý dùng thêm các đồ ăn thức uống có vị chua ngọt, cay thơm nhằm mục đích khai vị, kích thích cảm giác thèm ăn như các loại canh chua chế từ quả sấu, me, khế, quả dọc, tai chua, quả chay, chua me đất hoa vàng... và các loại nước cam, nước chanh, nước mơ, nước sấu... Tuy nhiên, cần chú ý không nên dùng quá nhiều đường tinh luyện khi pha chế các loại nước giải khát.

Cuối cùng, trong ăn uống mùa hạ, Đông y còn có một quan điểm hết sức độc đáo, đó là “xuân hạ dưỡng dương”. Mùa hạ nóng nực tuy phải dùng nhiều đồ ăn thức uống có tác dụng thanh nhiệt giải thử nhưng vẫn cần lấy ôn ấm làm chính để trợ giúp khí dương. Bởi vì, các nhà dưỡng sinh Đông y cho rằng mùa hạ tuy dương khí vượng thịnh bên ngoài nhưng khí âm lại tiềm ẩn bên trong cơ thể, vậy nên “trời tuy nóng chớ tham mát, dưa tuy ngon chớ ăn nhiều”. Nếu không biết giữ gìn dương khí trong mùa hạ thì mùa đông sẽ mắc nhiều bệnh tật, phải biết thuận ứng thiên thời để bồi bổ dương khí, trừ khử âm hàn có như vậy mới gọi là phòng bệnh triệt để. Bởi vậy, trong mùa hạ việc chọn dùng một số đồ ăn thức uống có tính ôn bổ cũng là rất cần thiết, đặc biệt đối với những người có bệnh mạn tính và thể chất vốn suy nhược do dương khí kém. Ví như, các loại nấm (nấm rơm, nấm mỡ, nấm hương, nấm kim châm...), hoài sơn, hạt sen, tổ yến, phấn hoa, sữa ong chúa, trà linh chi, đông trùng hạ thảo hầm thịt vịt, ba ba hầm chuối đậu...

ThS. Hoàng Khánh Toàn

8 món ăn bổ dưỡng, thanh nhiệt ngày nắng nóng8 món ăn bổ dưỡng, thanh nhiệt ngày nắng nóngGiải pháp ăn uống khi bị mề đayGiải pháp ăn uống khi bị mề đayBài thuốc chữa bí tiểuBài thuốc chữa bí tiểu

 

 

 

Món ăn, bài thuốc tốt cho mắt

Muốn mắt sáng, hoạt động tốt, không nhức mỏi theo y học cổ truyền cần phải dưỡng can, dưỡng huyết đầy đủ, nhất là khi làm việc và học tập bằng trí óc và đôi mắt liên tục căng thẳng. Xin giới thiệu một số món ăn, bài thuốc có tác dụng dưỡng mắt, sáng mắt để bạn đọc tham khảo.

Bài 1: Cà rốt 60g, hoa cúc 20g, gạo tẻ 30g. Cách làm: Cà rốt gọt vỏ, rửa sạch, thái miếng. Cho hoa cúc vào ấm, thêm 500ml nước, đun sôi 20 phút, rồi cho cà rốt và gạo tẻ vào nấu cùng thành cháo. Nêm muối, dầu ăn và hành, ăn khi đói bụng. Công dụng: Thanh nhiệt, sáng mắt, dùng thích hợp cho người cho người thị lực suy giảm, nhức đầu.

Câu kỷ tử.

Bài 2: Câu kỷ tử 30g, dâu tằm (tang thầm) 30g, gạo nếp 60g, đường phèn. Cách làm: Rửa sạch các vị rồi cho vào nồi nấu thành cháo. Khi ăn cho thêm đường phèn. Công dụng: Bổ can thận, dưỡng huyết, ích trí, làm sáng mắt, thích hợp với những người bị giảm thị lực, hoa mắt chóng mặt, mất ngủ, tóc bạc sớm… do huyết hư, can thận suy yếu.

Bài 3: Gan lợn 100g, rau chân vịt 150g, gừng, hành, muối, dầu ăn vừa đủ. Cách làm: Gan rửa sạch thái mỏng, rau rửa sạch cắt khúc, cho nước vào nồi, cho gừng thái nhỏ, dầu ăn, muối, đun to lửa cho sôi rồi cho gan rau vào, gan chín cho gia vị là được. Ăn nóng với cơm, ngày 1 lần, tuần 3 lần. Công dụng: Bổ can, dưỡng huyết, hỗ trợ điều trị cận thị, hoa mắt, váng đầu.

Rau chân vịt.

Bài 4: Gan gà 60g, câu kỷ tử 30g, táo đỏ 4 quả, gừng tươi 2 lát mỏng. Cách chế biến: Gan gà rửa sạch, thái mỏng, táo đỏ bỏ hột, cho vào bát sành, đem chưng cách thủy khoảng hai giờ, nêm gia vị, ăn lúc đói bụng. Dùng 3 lần 1 tuần. Có thể dùng thường xuyên. Những người bị bệnh gan mạn tính, tăng huyết áp, bệnh đường tiêu hoá không nên dùng.

Bài 5: Gan dê 100g, gạo tẻ, hành, muối vừa đủ. Cách làm: Gan dê rửa sạch thái miếng, nước vừa đủ nấu chín, sau đó cho gạo đã vo sạch vào đun tiếp thành cháo, cho gia vị là được. Ngày ăn 1 bát, ăn liền 7 ngày. Công dụng: Dưỡng can sáng mắt hỗ trợ điều trị cận thị, quáng gà, hoa mắt.

Bài 6: Hoa cúc trắng 15g, quyết minh tử 15g, gạo tẻ 100g, đường kính trắng 15g. Cách làm: Rang thảo quyết minh cho có mùi thơm, để nguội, nấu với hoa cúc trắng, lấy nước bỏ bã, lọc trong. Cho gạo tẻ vào nước thuốc nấu thành cháo. Khi ăn cho thêm đường trắng. Công dụng: Mát gan, sáng mắt, nhuận tràng, thích hợp với người bệnh đau mắt đỏ, nhìn mờ, tăng huyết áp. Người bị tiêu chảy không nên dùng.

Bác sĩ Thúy Hường

Ngâm chân chữa chứng mất ngủ

Khi lâm vào tình trạng này, thông thường người ta hay sử dụng các thuốc trấn tĩnh, an thần của y học hiện đại. Nhưng, không hiếm khi, các thuốc này cũng tỏ ra bất lực, đó là chưa kể đến những tác dụng không mong muốn mà chúng đem lại. Lúc này, nhiều khi, những biện pháp giàu tính tự nhiên của y học cổ truyền như xoa bóp, bấm huyệt, tập luyện khí công dưỡng sinh... lại tỏ ra có vai trò khá hữu hiệu, trong đó không thể không kể đến phương pháp ngâm chân trước ngủ mà Đông y gọi là Dược dục liệu pháp. Có thể dẫn ra một số công thức cụ thể như sau:

Công thức 1: Nước ấm tự nhiên 1 chậu, ngâm cả hai chân trong 20 phút, mỗi ngày 1 - 2 lần nhưng nhất thiết phải có 1 lần trước khi ngủ tối, đúng như cổ nhân đã nói: “Sau ăn 300 bước, trước ngủ một chậu ngâm”. Tùy theo điều kiện thời tiết và tính mẫn cảm của từng người, nhiệt độ nước ngâm vào khoảng từ 38 - 430C.

Nước sắc ngô thù du làm cho hai tạng Tâm và Thận giao hòa giúp cải thiện giấc ngủ sâu.

Nước sắc ngô thù du làm cho hai tạng Tâm và Thận giao hòa giúp cải thiện giấc ngủ sâu.

Công thức 2: Ngô thù du 20g, dấm gạo lượng vừa đủ. Sắc kỹ ngô thù du lấy nước bỏ bã rồi hòa thêm dấm gạo, ngâm cả hai chân trong 30 phút, mỗi ngày 1 lần trước khi ngủ tối. Theo y học cổ truyền, công thức này có tác dụng làm cho hai tạng Tâm và Thận giao hòa được với nhau, từ đó làm cho giấc ngủ có chất lượng hơn.

Công thức 3: Từ thạch 20g, chích ngũ gia 20g, phục thần 15g, ngũ vị tử 10g. Trước tiên, sắc từ thạch trong 30 phút rồi cho các vị thuốc khác vào sắc tiếp 30 phút nữa là được, bỏ bã lấy nước ngâm chân trong 20 phút, mỗi tối 1 lần kết hợp với việc dùng nước thuốc xoa nhiều lần lên vùng trán và thái dương.

Công thức 4: Từ thạch 20g, sinh long cốt 15g, cúc hoa 15g, hoàng cầm 12g, dạ giao đằng 20g. Tất cả các vị đem sắc lấy nước ngâm chân mỗi tối trước khi đi ngủ trong 30 phút. Công thức này rất thích hợp cho những người bị mất ngủ kèm theo đau đầu, hay có cơn bốc hỏa, trong ngực bụng cồn cào, bức bối không yên...

Công thức 5: Đan sâm 20g, bạch truật 15g, hoàng liên 12g, viễn chí 10g, toan táo nhân 15g, trân châu mẫu 10g. Tất cả các vị thuốc đem sắc kỹ lấy nước ngâm chân trong 30 phút, mỗi ngày 1 lần trước khi ngủ tối.

Thảo quyết minh.

Thảo quyết minh.

Công thức 6: Lạc tiên 20g, lá vông 20g, thảo quyết minh 20g, hồng hoa 15g. Tất cả đem sắc kỹ lấy nước ngâm chân trong 30 phút, trước khi đi ngủ. Cũng có thể dùng dịch thuốc để uống thay nước hàng ngày.

Công thức 7: Toan táo nhân 20g, mẫu lệ 20g, thạch quyết minh 20g, long cốt 20g. Tất cả đem sức lấy nước ngâm chân 30 phút hàng ngày trước khi đi ngủ.

Để làm tăng công dụng tĩnh tâm an thần, trong khi ngâm chân nên kết hợp với thư giãn, toàn thân thả lỏng, thở đều, nhẹ và sâu. Sau đó, có thể dùng các ngón tay day ấn vùng thái dương, miết vùng trán và xoa xát vùng gáy trong vài phút. Đương nhiên, việc điều chỉnh chế độ làm việc và nghỉ ngơi, chủ động điều tiết đời sống tình cảm, hạn chế đến mức thấp nhất các yếu tố làm căng thẳng thần kinh... là không thể thiếu được.

ThS. Hoàng Khánh Toàn

Cá khoai

Theo Đông y, cá khoai vị ngọt, tính mát, không độc, tác dụng bổ hư, mát huyết, nhuận tràng, ích ngũ tạng... Ăn rất tốt với người gầy nóng, huyết hư, vị nhiệt miệng khô khát, táo bón, ho khan, đái tháo đường... Sau đây là một số món ăn thuốc từ cá khoai:

Canh cá khoai nấu rau cải cúc: cá khoai, cải cúc, gừng, hành gia vị vừa đủ nấu canh ăn. Công dụng: bổ phế, nhuận táo, chỉ khái… Chữa phế nhiệt ho khan, viêm.

Lẩu cá khoai tốt cho người mệt mỏi đau đầu, chóng mặt.

Lẩu cá khoai tốt cho người mệt mỏi đau đầu, chóng mặt.

Cá khoai nấu rau cần: cá khoai, cà chua, rau cần ta, thì là, mùi tàu gia vị vừa đủ nấu canh ăn. Công dụng: bổ huyết, mát huyết, dưỡng tỳ vị… Chữa chứng nội nhiệt khó lên cân, đau đầu chóng mặt, tăng huyết áp, ho khan, đại tiểu tiện không thông.

Lẩu cá khoai: cá khoai, xương lợn, giá đậu, dứa, cà chua, ớt, đậu phụ, ớt, gia vị vừa đủ nấu lẩu ăn. Rau ăn lẩu là cải cúc, rau muống. Công dụng: bổ hư, mát huyết, sinh tân… Chữa đái tháo đường, sắc mặt hình thể khô khan, người mệt mỏi, đau đầu chóng mặt.

Canh chua cá khoai: cá khoai, dứa, cà chua, dọc mùng, giá đậu, rau ngổ, hành lá, ớt, gia vị vừa đủ nấu canh ăn. Công dụng: bổ huyết, thanh nhiệt, hạ khí... Trị táo bón, tiểu vàng ít, đau đầu chóng mặt, tăng huyết áp và các chứng liên quan nóng nhiệt.

Cháo cá khoai: cá khoai, gạo mới, đậu xanh, hành, ngò mùi, tiêu, mắm muối gia vị vừa đủ. Cá khoai tươi làm sạch cắt khúc, khi cháo chín bỏ cá vào, nêm gia vị ăn nóng. Công dụng: bổ hư, dưỡng tỳ vị, sinh tân… Thích hợp người già ăn kém, mệt mỏi, chứng phù do suy dinh dưỡng, trẻ em còi cọc chậm lớn.

Lương y Phan Thị Thạnh

Món ăn thuốc từ quả thanh long

là món ăn vị thuốc phòng trị bệnh tiểu đường, thống phong, huyết áp, mập phì...

Theo dược tính hiện đại, trong 100g trái thanh long, phần ăn được cung cấp 85 - 87g nước; 1,1g đạm; 0,0g chất béo; 11,2g đường chung; 0,59g tro; nhiều vitamin và chất khoáng: 0,011mg vitamin A; 3mg vitamin C; 2,8mg vitamin PP; 10,2mg canxi; 6,07mg sắt; 27,5mg photpho; 27,2mg kali; 2,9 mg natri; cung cấp 40 - 60 calo. Quả chín thanh long chứa nhiều chất nhầy pectin, chất xơ hoà tan và chất xơ không tan cellulose đều là chất có tác dụng phòng trị bệnh táo bón, béo phì, xơ vữa động mạch, viêm ruột kết... rất hiệu quả. Thanh long còn là trái cây có chứa lượng đường thấp, giàu ma-nhê, nhiều vitamin và khoáng chất, lại ít năng lượng (40 - 60 calo) sinh nhiệt thấp, vậy nên ăn thanh long thường xuyên rất tốt cho người tiểu đường, người mập phì nóng nhiệt, đang cần giảm cân.

Sau đây là một số món ăn bài thuốc dược thiện phòng trị bệnh từ quả thanh long dễ chế biến sử dụng ăn rất ngon phù hợp với nhiều lứa tuổi.

Chữa táo bón kinh niên: Thanh long 200g, đu đủ chín 50g, thêm sapoche 50g, chuối 50g cắt thành miếng cho vào ly cho thêm đường cát, hoặc sữa cho tủ lạnh ăn ngày 1 - 2 lần.

Chữa tiểu đường: Thanh long 200g, ổi chín 100g, xay sinh tố hoặc ép nước uống ngày vài lần.

Chữa gan nhiễm mỡ, thừa cân béo phì: Thanh long 200g, dứa chín 100g, làm sinh tố hoặc ép nước uống nhiều ngày.

Chữa bệnh thống phong, gút: Thanh long 100g, dưa leo 100g cắt nhỏ cho thêm đường cát ăn hoặc ép nước uống nhiều ngày.

Chữa tăng huyết áp, đau đầu chóng mặt “do can hoả vượng”: Thanh long 200g, dưa hấu chín 100g cắt lát, dâu tây 50g xắt lát, làm sinh tố hoặc ép nước uống ngày 1 - 2 lần.

Chữa viêm đại tràng rối loạn tiêu hoá: Thanh long 100g thái thành miếng. Yaourt 1 hũ cho vào ly trộn thêm ít đá ăn ngày vài lần.

Chữa ho khan (viêm phế quản): Hoa thanh long tươi 4 - 5 cái tươi nấu canh với thịt heo hoặc sắc uống.

Lưu ý: thanh long có vị chua tính mát nên người tỳ vị hư hàn, đang đi cầu phân lỏng, đầy bụng, dùng hạn chế hoặc không nên dùng.

Lương y: Phan Thị Thạnh

Món ngon

Cá mực giá trị dinh dưỡng cao, rất tốt cho người thiếu máu, chóng mặt ù tai, di tinh, xuất tinh sớm, phụ nữ kinh nguyệt không đều, ít sữa...

Theo Đông y, cá mực vị ngọt mặn, tính bình; vào kinh can, thận, tỳ. Có tác dụng tư âm, dưỡng huyết, kiện tỳ, lợi thủy, chỉ huyết, ôn kinh mạch. Dùng tốt cho người bị phù nề, phong thấp, trĩ lậu, bế kinh thống kinh, huyết trắng, động thai dọa sẩy. Xin giới thiệu một số món ăn thuốc từ cá mực.

Cá mực hầm bí đao, đậu đỏ: Cá mực khô 2 - 3 con, bí đao 500g, đậu đỏ nhỏ hạt 100g. Cá mực ngâm mềm, rửa sạch, thái lát; bí đao gọt bỏ vỏ mỏng và ruột, cho gia vị nhưng không cho muối mắm, hầm chín nhừ, cho ăn liên tục đợt 3 - 5 ngày. Dùng cho các trường hợp viêm thận cấp, phù nề, cổ trướng xơ gan, ứ tắc sữa.

Cá mực hầm đào nhân: Cá mực khô 1- 2 con, đào nhân 15g. Cá mực ngâm mềm, rửa sạch, thái lát, thêm gia vị nấu nhừ, ăn liên tục đợt 3 - 5 ngày. Dùng cho các trường hợp bế kinh, thống kinh.

Gà hầm cá mực: Gà mái tơ 1 con, mực 2 con. Gà làm sạch, thái lát lớn, mực khô ngâm mềm, rửa sạch, thái lá; thêm gia vị hầm nhừ. Dùng cho phụ nữ, cơ thể suy nhược, khí hư huyết hư, sản phụ ít sữa tắc sữa.

Mực hầm đương quy: cá mực khô 2-3 con, quy đầu hoặc quy thân 30g. Mực ngâm mềm, rửa sạch, thái lát; quy rửa sạch, thái lát mỏng. Nấu nhừ. Dùng cho phụ nữ huyết hư thiếu máu, kinh nguyệt không đều, kinh nguyệt ít.

Canh súp mực thịt lợn: cá mực 2 con, thịt lợn nạc 100g, tôm nõn 100g, củ mài 30g, hạt sen bỏ tâm 30g. Mực làm sạch thái lát, thịt heo thái miếng, tôm nõn ngâm rửa, thêm gia vị và nước; nấu nhừ. Dùng rất tốt cho người mệt mỏi suy nhược, mất ngủ, ngủ mê.

Cá mực hầm đào nhân: cá mực khô 2 con, đào nhân 10g. Mực ngâm mềm làm sạch thái lát, đào nhân bóc vỏ rửa sạch cùng cho trong nồi nhôm, thêm gừng tươi, hành, muối, nước lượng thích hợp, đặt trên bếp đun to lửa cho sôi, đun nhỏ lửa cho chín nhừ. Cho ăn thường ngày, liên tục một đợt 7-10 ngày. Dùng cho các trường hợp huyết hư thiếu máu, kinh nguyệt thất thường, lượng ít.

Mực hầm gừng nướng: cá mực tươi khoảng 300g, gừng nướng 6g thái lát, hai thứ cùng cho vào nồi, đổ nước nấu chín, thêm bột gia vị. Ngày ăn 1 lần, liên tục 3-5 ngày. Dùng cho phụ nữ kinh nguyệt kéo dài nhưng ít, cơ thể suy nhược thiếu máu.

Lương y Thảo Nguyên

3 bài thuốc cổ chữa bệnh mùa nóng

Theo Đông y, mùa hè hay mùa trường hạ do mưa nhiều, nắng nhiều sinh ra chứng thấp nhiệt, làm cơ thể mệt mỏi, chân tay rã rời, tinh thần giảm sút, có khi sốt, đau đầu, khát nước, tự ra mồ hôi, tiểu tiện vàng, có khi đỏ, miệng khô, lưỡi vàng, đầu lưỡi đỏ, mạch hư. Bài viết dưới đây xin giới thiệu bài thuốc có giá trị chữa bệnh trong mùa nắng nóng để bạn đọc tham khảo và áp dụng.

​Bạch phục linh.

Bài Thanh thử ích khí thang: nhân sâm 8g, bạch truật 12g, thanh bì 8g, mạch môn đông 8g, quất hồng bì 8g (thanh bì là vỏ quả quýt đang xanh, quất bì là vỏ quả quýt đã chín) hoàng kỳ 12g, thần khúc 8g, thăng ma 12g, hoàng bá 12g, thương truật 8g, cam thảo 6g, ngũ vị tử 6g, cát căn 12g, trạch tả 8g, đương quy 8g, khi sắc cho thêm sinh khương 8g, đại táo 2 quả. Ngày một thang, sắc uống chia 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

Bài thuốc có tác dụng: thanh thử hóa thấp, ích khí, sinh tân dịch. Các y gia thời xưa cho rằng: Thời lệnh của thử khí bắt đầu từ hạ chí. Đến trường hạ thì có thêm cả thấp khí, bài thuốc này điều trị được tất cả chứng thử và chứng thấp.

Trong trường hợp thấp nặng hơn thử thì phải dùng bài Thanh táo thang để điều trị kết quả mới cao. Khi thấp nặng hơn thử thì bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng như mắc chứng nuy quyết. Có nghĩa là từ eo lưng trở xuống đau mềm, vận động khó khăn. Đi đứng khó khăn, xiêu vẹo, chân bước tập tễnh.

Bài Thanh táo thang: hoàng liên 8g, mạch môn 8g, sinh địa 8g, trư linh 8g, hoàng bá (sao rượu) 8g, quy thân 8g, chích cam thảo 6g, thần khúc 8g, nhân sâm 12g, trư linh 12g, bạch phục linh 12g, thăng ma 12g, quất bì 6g, trạch tả 6g, bạch truật 6g, thương truật 15g, hoàng kỳ 16g, ngũ vị tử 6g. Ngày một thang, sắc uống chia 3 lần trong ngày, uống lúc đói khi thuốc còn nóng.

Bài Thanh thử ích khí thang và Thanh táo thang đều là các phương thuốc trị chứng thử thấp. Thanh thử ích khí thang dùng để điều trị chứng thử thịnh hơn thấp. Thử thường làm tổn thương khí cho nên sốt cao, khát nước nhiều, người mệt mỏi, tự ra mồ hôi, mạch hư cho nên lấy bổ khí làm chủ yếu. Còn phương Thanh táo thang là để trị chứng thấp nặng hơn thử. Những vị thuốc trong bài này phần nhiều nghiêng về thấm thấp và tả hỏa. Nếu thầy thuốc không có đầy đủ kiến thức mà đem những bài này sử dụng vào mùa đông xuân, khi bệnh nhân mắc chứng phong ôn đối với loại bệnh thủy kiệt, tủy khô làm bệnh càng biến chứng dẫn đến bệnh nhân mắc chứng cốt nuy hoặc bệnh không do thấp nhiệt có thể làm tổn thương tân dịch, bệnh càng nặng hơn.

TTND.BS. Nguyễn Xuân Hướng

Cách chữa phù sau sinh em béCách chữa phù sau sinh em béChữa phù do viêm thận bằng 2 bài thuốc đơn giảnChữa phù do viêm thận bằng 2 bài thuốc đơn giản3 bài thuốc quý chữa phù do tỳ hư3 bài thuốc quý chữa phù do tỳ hư

Thanh đại

Thanh đại chứa hợp chất glucozit (Indican), khi thủy phân cho glucoza và indoxyl; chất này nhanh bị ôxy hóa thành indigotin. Theo Đông y, thanh đại vị mặn, tính hàn; vào kinh can. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết tiêu ban. Chữa các chứng can nhiệt, kinh giật, nhiệt khái đàm đặc, thấp chẩn lở mồm, huyết nhiệt phát ban, thổ nục, sang ung, quai bị. Theo nghiên cứu mới đây tại Đài Loan, bột thanh đại (indigo naturalis) rất hiệu nghiệm trong việc trị bệnh vảy nến (psoriasis). Liều dùng: 2-8g. Do vị thuốc khó tan trong nước nên thường làm thành thuốc bột hoặc cho vào thuốc thang.

Thanh đại (bột chàm) và ít băng phiến chế với nước ấm, bôi vào chỗ đau. Trị viêm tuyến mang tai cấp tính trẻ em (quai bị).

Thanh đại (bột chàm) và ít băng phiến chế với nước ấm, bôi vào chỗ đau. Trị viêm tuyến mang tai cấp tính trẻ em (quai bị).

Giải độc trị nhọt:

Bài 1: thanh đại 8g, thạch cao 16g, hoạt thạch 16g, hoàng bá 8g. Các vị nghiền mịn, trộn đều, thêm một lượng vaselin, đánh kỹ, bôi vào chỗ đau. Trị các bệnh ngoài da, sưng nóng, đau ngứa, chảy nước.

Bài 2: thanh đại và ít băng phiến chế với nước ấm, bôi vào chỗ đau. Trị viêm tuyến mang tai cấp tính trẻ em (quai bị).

Lương huyết, tiêu ban: Trị phát ban do nhiệt độc, huyết nhiệt gây thổ huyết, đổ máu cam.

Bài 1: thanh đại 8g. Uống với nước. Trị ban đỏ do nhiễm hàn.

Bài 2: thanh đại 12g, cáp phấn 12g. Nghiền bột mịn. Mỗi lần dùng 2-4g, uống với nước, ngày 2 lần. Trị ho ra đờm có máu do giãn phế quản. Nếu huyết nhiệt gây thổ huyết, chảy máu cam thì dùng thanh đại hoặc kết hợp với bồ hoàng, hoàng cầm.

Thanh nhiệt giải nắng:

Bài 1 - Bột Bích ngọc: thanh đại 63g, cam thảo 63g, hoạt thạch 63g. Nghiền chung thành bột, mỗi lần 12-30g. Sắc hoặc pha với nước. Trị cảm nóng, tiểu tiện ít mà đỏ.

Bài 2: thanh đại 12g, bạch phàn 24g. Nghiền thành bột mịn. Ngày 3 lần, mỗi lần 2g. Chữa viêm gan cấp và mạn tính.

Chữa viêm răng lợi, hầu họng:

Bài 1 - Thuốc cam xanh: bạch phàn 20g, thanh đại 80g, ngũ bội tử 20g, băng phiến 2g. Trị viêm lợi, ngứa nhức chân răng, sâu răng; chảy máu, cam miệng, cam mũi trẻ em.

Bài 2 - Thuốc cam tẩu mã: hoàng bá 12g, hoàng liên 16g, thanh đại 20g, đinh hương 12g, đại hồi 4g, nhân trung bạch 20g, bạch phàn 12g. Làm thuốc bột. Đắp chỗ lợi sưng đau. Ngày 3-4 lần.

Kiêng kỵ: Do thanh đại tính rất hàn nên không phải thực nhiệt thì không dùng.

Lương y Thảo Nguyên

Món ăn thuốc phòng chữa loãng xương

Về trị liệu, ngoài việc dùng thuốc, châm cứu, tập khí công dưỡng sinh, người xưa cũng sử dụng nhiều món ăn - bài thuốc độc đáo. Xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo áp dụng.

Thể thận dương hư: người bệnh có biểu hiện đau lưng tê mỏi dọc xương hai chân, đứng lâu bệnh tăng, chân không ấm. Nên dùng các món:

Tôm xào bắp non: tôm lột 100g, bắp non 100g, đậu hà lan 50g, đậu rồng 50g, thêm gia vị dầu hào, bột nêm vừa đủ hầm ăn tuần vài lần.

Canh hến rau ngót: thịt hến 100g, rau ngót 150g, hành tím 2 củ, gia vị gừng nướng, tiêu bột nêm vừa đủ nấu canh ăn.

Ngọc dương tiềm thuốc: ngọc dương 1 cái 50g; thục địa, hoài sơn, sơn thù, đan bì, trạch tả, phục linh, đỗ trọng, cẩu kỷ mỗi vị 12g hoặc hơn; nhục quế 6g, phụ tử 6g, gia vị gừng hành vừa đủ tiềm ăn.

Ngoài ra, cần tăng cường ăn các món hầm xương động vật; các loại tinh hoàn gà, vịt, dê, bò và tắc kè, cá ngựa, tôm cua cá nhỏ đều tốt.

Thể thận âm suy: người bệnh có biểu hiện như đau mỏi các đầu khớp xương tay chân, người nóng trong, miệng khô tiểu vàng. Nên dùng các món sau:

Bún riêu cua: thịt cua đồng 100g, đậu phụ 50g, xương giò heo 100g, hành củ 20g, gia vị bột nêm mắm muối nấu chín, khi ăn múc ra tô cho bún, cho nhiều rau thơm, giá đậu ăn nóng.

Cật lợn xào hoa lý: cật lợn 100g thái lát, hoa lý 150g, rau hẹ 50g, thêm gia vị gừng mắm muối vừa đủ xào ăn.

Lẩu đuôi bò: đuôi bò 100g, củ cải 50g, khoai môn 50g, cà rốt 50g, rau mùng tơi 40g, thêm gừng, hành, gia vị vừa đủ nấu nhừ ăn.

Cật lợn hầm thuốc bắc: cật lợn 1 cái 60g bổ đôi làm sạch; hoài sơn, sơn thù, đan bì, trạch tả, phục linh, thục địa, đương quy, cẩu kỷ mỗi vị 14g hoặc hơn, thêm gừng, hành gia vị tiềm ăn.

Ngoài ra, tăng cường ăn bổ mát giàu canxi như đậu đen, mè đen, đậu mè ngũ cốc còn nguyên vỏ lụa và khoai lang, khoai sọ, khoai từ, trái cây như dâu, bơ, chuối...

Thể tỳ thận khi hư: người bệnh có biểu hiện khớp xương chân tay nhức mỏi tê lạnh, người nặng nề, vốn ăn ngủ kém. Nên dùng các món:

Gà ác tiềm hạt sen: gà ác 1 con làm sạch; hạt sen 40g; cẩu kỷ, nấm mèo, lá ngải tươi mỗi thứ 20g; thêm gừng, tiêu, gia vị, mắm muối vừa đủ hầm ăn.

Xương chân dê hầm đậu xanh: chân dê 4 cái nướng chín, làm sạch cắt khúc 200g, đậu xanh 100g, lá ngải 30g, hành tiêu, gia vị vừa đủ hầm ăn.

Lương y Phan Thị Thạnh

Bài thuốc trị chứng vàng da

Sau đây là một số bài thuốc hữu hiệu trị chứng này theo từng nguyên nhân.

Mã đề thảo.

Vàng da do bị tắc đường dẫn mật

Nguyên nhân do viêm nhiễm, do giun, do sỏi, do tắc cho nên túi mật căng to, áp lực tăng lên. Người bệnh có biểu hiện đau vùng gan, đau điểm túi mật, có khi đau quặn, đau dữ dội, bệnh nhân quằn quại, lăn lộn, da vàng nước tiểu vàng. Nguyên tắc chữa trị: Chống viêm, thông mật, bài thạch. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Ích mẫu 12g, nhân trần 12g, đinh lăng 20g, kim tiền thảo 16g, lá tre 16g, rau mã đề 16g, trần bì 10g, trinh nữ 16g, rễ bí đỏ 16g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. 7 - 10 ngày là 1 liệu trình. Công dụng: bài thạch, thông suốt ống dẫn mật thì chứng vàng da khỏi dần.

Bài 2: Bồ công anh 20g, đinh lăng 20g, mã đề thảo 16g, cây chó đẻ (diệp hạ châu) 16g, trần bì 12g, chỉ xác 10g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Công dụng: thông lợi mật, chống viêm.

Bài 3: Uất kim 10g, đại hoàng 6g, nhân trần 10g, xa tiền 12g, kim ngân hoa 10g, cỏ mực 16g, rau má 20g, chi tử 10g, xích thược 10g, cát căn 12g, trần bì 12g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Công dụng: thông mật, chống viêm, giảm đau rất nhanh.

Vàng da do can khí uất kết

Người bệnh có triệu chứng: da vàng tối sạm, đau tức hạ sườn phải, đại tiện táo, khó ngủ, ăn kém, tinh thần mệt mỏi. Nguyên tắc điều trị là thanh nhiệt hóa thấp, thư can, giải uất. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Ngân hoa 10g, liên kiều 10g, hạ liên châu 12g, củ đợi 12g, bạch thược 12g, chi tử 12g, mã đề thảo 20g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Bài 2: Nhân trần 10g, rau má 20g, hương phụ 10g, sài hồ 10g, đan sâm 10g, đinh lăng 12g, củ đợi 12g, cỏ mần trầu 16g, ngân hoa 10g, cỏ mực 16g, cam thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Vàng da do viêm gan virut

Người bệnh có triệu chứng sốt, đau đầu (thường đau ở đỉnh đầu), gan to, mật độ mềm, đau nhẹ vùng gan, cảm giác nặng tức, da, niêm mạc, mắt vàng, nước tiểu vàng. Nguyên tắc điều trị: chống viêm, thanh nhiệt, dưỡng gan. Dùng một trong các bài thuốc:

Bài 1: Nhân trần 10g, cam thảo đất 16g, củ đợi 12g, rau diếp cá 20g, bồ công anh 16g, chỉ xác 10g, trần bì 10g, bạch thược 12g, râu ngô 12g, chi tử 12g, nam hoàng bá 16g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Công dụng: chống viêm, thanh nhiệt, nhuận gan.

Bài 2: Mã đề thảo 20g, cỏ mực 20g, nhân trần 16g, nam hoàng bá 16g, bạch thược 12g, khởi tử 12g, hoàng cầm 12g, đương quy 12g, sa sâm 12g, huyền sâm 10g, trần bì 10g, nghệ vàng 10g, râu ngô 10g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. 15-20 ngày là 1 liệu trình. Công dụng: chống viêm, thanh nhiệt, hòa can, cải thiện chức năng gan mật.

Bài 3: Hạ liên châu 16g, củ đợi 12g, rau má 20g, bạch thược 12g, đương quy 12g, sài hồ 10g, cỏ mực 16g, ngân hoa 12g, liên kiều 10g, lá đinh lăng 20g. Sắc uống ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần.

Lương y Đình Thuấn

Da động vật làm thuốc

Da trâu

Da trâu cạo bỏ hết lông, thịt, gân, màng, cắt thành từng miếng, phơi hay sấy khô. Khi dùng, để nguyên bản hoặc chế biến thành keo theo cách ngâm da trâu vào nước vôi trong 1 ngày đêm. Sau đó, rửa sạch, luộc chín, rồi cắt nhỏ, nấu với nước xâm xấp và sôi liên tục trong 1 ngày, 1 đêm. Chắt lấy nước thứ nhất. Thêm nước, tiếp tục nấu để được nước thứ hai, thứ ba. Gộp các nước chắt lại, lọc kỹ, cô cách thủy thành cao đặc, tên thuốc là minh giao. Dược liệu có vị mặn, ngọt, mùi hơi tanh, tính bình, không độc, có tác dụng giảm đau, cầm máu, nhuận táo, có công dụng trị phong thấp, chân tay đau nhức, tiểu són, động thai, thổ huyết.

Danh y Tuệ Tĩnh đã dùng cao da trâu trong những trường hợp sau:

Chữa đau vú: keo da trâu nấu với ít giấm cho tan, rồi đắp dán.

Chữa động thai: keo da trâu 20g, tầm gửi cây dâu 50g, lá ngải cứu 12g, thái nhỏ, phơi khô, sắc uống trong ngày.

Chữa thổ huyết, băng huyết, đái ra máu: cao da trâu 4g, sợi bông 4g, đốt thành tro uống trong ngày.

Sản phụ bị rong huyết do cơ năng: cao da trâu 20g, ngải cứu tươi 15g, ngũ bội tử 15g tán bột. Sắc ngải cứu lấy nước, bỏ bã, thái cao da trâu cho vào đun loãng ra, rồi hòa với bột ngũ vị tử, uống ngày 1 thang.

Chữa tiểu són: cao da trâu, vỏ hàu (nung đỏ), lộc nhung, tang phiêu diêu (sao với rượu), liều lượng bằng nhau, tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với hồ nếp hoàn viên bằng hạt ngô. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 25 viên với nước muối pha ít rượu vào lúc đói.

Chữa rong kinh, băng huyết: cao da trâu 10g, muội nồi 8g, cao ích mẫu 3g, trộn đều, uống với nước đun sôi để nguội.

Chữa phong thấp, chân tay đau nhức: da trâu 40g, ngâm nước cho mềm, cắt nhỏ, trộn nước cốt gừng, nấu nhỏ lửa cho đặc quánh. Để nguội, phết thuốc lên giấy, dán vào chỗ đau.

Thuốc cầm máu theo kinh nghiệm dân gian: da trâu khô đốt thành than, tán nhỏ, rắc vào nơi tổn thương.

Da rắn

Da rắn còn gọi là xác rắn lột được lấy từ nhiều loại rắn, nhưng tốt nhất là rắn ráo. Dùng sống hoặc phun rượu cho ướt đều, ủ cho ấm rồi sao nhẹ cho khô. Dược liệu có vị ngọt mặn, hơi tanh, tính bình, không độc, có tác dụng sát khuẩn, chống viêm, giải độc.

Da động vật làm thuốcDa rắn (xác rắn lột) chống viêm, chữa bệnh trĩ.

Chữa viêm họng: Xác rắn lột cho vào ống tre, đốt lấy khói xông vào cổ họng.

Thuốc đắp chữa nhọt cứng sần (không có mủ): xác rắn lột cắt nhỏ, sao qua, tán bột, tẩm với rượu cho thành bánh, đắp vào nơi tổn thương

Chữa bệnh ngoài da, đầu vú bị nứt nẻ: xác rắn 100g đốt tồn tính, tán nhỏ, rây bột mịn; củ ráy dại 100g, nghệ vàng 100g để tươi, thái mỏng, cho vào dầu vừng, rán khô, bỏ bã. Trộn bột xác rắn lột với dầu các dược liệu, bôi hàng ngày.

Chữa bệnh trĩ: xác rắn lột 1 cái, lá cam sành 1 nắm, phơi khô, đốt thành than, tán bột, hòa với nước cơm bôi.

Đồng bào Thượng ở Tây Nguyên lại dùng xác rắn lột nấu nước uống chữa da khô, ngứa ngáy, hay bong vảy.

Da lừa

Da lừa nấu thành cao gọi là a giao hay cao da lừa thường được dùng làm thuốc bổ. Theo Đông y, a giao có vị ngọt, tính bình, không độc, vào 3 kinh: phế, can, thận. A giao có tác dụng dưỡng huyết, chữa hư hao gầy gò, xuất huyết tiêu hóa, ho ra máu, chảy máu cam... với liều dùng hàng ngày là 6-12g. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc trong các trường hợp sau:

Chữa tăng huyết áp, kinh nguyệt nhiều: a giao 6g, bồ hoàng 5g, cam thảo 2g. Tất cả thái nhỏ, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống làm 1 lần trong ngày.

Chữa ho ra máu: a giao 8g sao cho phồng, đơn bì 12g, bạch linh 6g, mạch môn 12g; sơn thù, trạch tả tẩm muối sao, hoài sơn mỗi vị 16g, thục địa 60g. Tất cả sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn, làm viên 10g. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 3 viên.

Chữa đại tiện ra máu: a giao 12g sao cho phồng, đương quy 8g, xích phục linh 8g, hoàng liên 12g, hoàng nghiệt 6g sao đen, ô mai 6g, gừng nướng thành than 4g, xích thược 2g. Sắc uống.

Trị huyết nhiệt, tiểu ra máu: a giao 4g sao phồng, sinh địa 8g, hoàng cầm đã sao 20g, trắc bá diệp (sao) 4g. Sắc uống sau bữa ăn.

DS. Đặng Văn Nam

Chứng can đởm thấp nhiệt trong Đông y

Nguyên nhân là do thấp nhiệt ngăn trở sự sơ tiết của can đởm, làm cho chức năng của can đởm bị tổn thương hoặc do thấp nhiệt theo đường kinh dồn xuống mà gây nên. Chứng này có thể do cảm nhiễm ngoại tà thấp nhiệt hoặc do ăn nhiều các thức ăn béo ngọt, cay nóng, uống nhiều rượu bia nung nấu thành thấp nhiệt hoặc do sự vận hóa của tỳ vị thất thường, thấp nhiệt từ bên trong sinh ra, uất lại hóa thành nhiệt, kết tụ lại ở can và đởm mà sinh ra bệnh.

Biểu hiện: miệng đắng, ăn kém, buồn nôn, vùng bụng trướng đầy khó chịu, nước tiểu đỏ, đại tiện lúc táo lúc lỏng, mặt và mắt vàng, vùng sinh dục ẩm ướt và ngứa, tinh hoàn trướng đau, phụ nữ cũng ngứa ở bộ phận sinh dục, ra nhiều đới hạ có màu vàng và có mùi hôi, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch huyền sác. Tùy từng chứng trạng mà dùng bài thuốc phù hợp như sau:

Do thấp nhiệt uất kết ở can đởm, đường lạc của can không điều hòa, đởm mất sự sơ tiết mà sinh ra chứng hiếp thống (đau hai mạn sườn).

Triệu chứng: miệng đắng, liên sườn trướng đau, vùng ngực khó chịu, ăn kém, buồn nôn, chất lưỡi đỏ rêu lưỡi vàng nhớt, mạch huyền sác.

Chứng can đởm thấp nhiệt trong Đông y

Điều trị: Thanh nhiệt lợi thấp, sơ can lý khí.

Bài thuốc thường dùng: Long đởm tả can thang: Long đởm thảo 12g, trạch tả 12g, sinh địa 12g, sài hồ 4g, mộc thông 12g, xa tiền tử 12g, đương qui 8g, gia khổ luyện tử 12g, huyền hồ sách 12g. Ngày uống một thang, sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

Do thấp nhiệt nung nấu ở can đởm, can mất đi sự sơ tiết, đởm dịch không đi theo đường kinh mà tràn ra ngoài sinh chứng hoàng đản.

Triệu chứng: Do đởm dịch tràn ra ngoài, thấm vào bì phu cho nên mắt, mặt, bì phu có màu vàng, bụng trướng đầy, miệng đắng, ăn kém, đại tiện lỏng. Thấp nhiệt dồn xuống bàng quang nên nước tiểu có màu vàng.

Điều trị: Thanh nhiệt trừ thấp lợi tiểu.

Bài thuốc thường dùng: Nhân trần cao thang gia giảm. Nhân trần cao 36g, sơn chi tử 8g, đại hoàng 12g. Ngày uống một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn tùy chứng trạng của bệnh nhân mà dùng liều lượng và gia giảm cho thích hợp.

Đường kinh của can, vòng qua bộ phận sinh dục, thấp nhiệt đi theo đường kinh dồn xuống mà sinh ra một số bệnh ở bộ phận sinh dục cả nam và nữ.

Triệu chứng: Nhiệt độc nung nấu ở trong, thấp nhiệt bị dồn xuống. Nam giới thì thấp chẩn ở âm namg, tinh hoàn sưng và đau. Nữ giới thì ngứa ở bộ phận sinh dục hoặc ra đới hạ màu vàng, mùi hôi, cục bộ có chỗ sưng đau và ngứa, có trường hợp chảy nước vàng, thường có kiêm chứng họng khô, miệng đắng, hàn nhiệt vãng lai, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch huyền sác.

Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp giải độc.

Bài thuốc thường dùng: Long đởm tả can thang (như trên) gia: Kim ngân hoa 12g, liên kiều 12g, hoàng bá 12g. Nếu có sưng ngứa ở bên ngoài thì dùng một số lá như khổ sâm... đun lên để ngâm rửa.

Do thấp nhiệt nung nấu ở can, đởm, can đởm mất chức năng sơ tiết, thấp nhiệt dồn xuống bàng quang mà sinh ra chứng lâm (đái dắt).

Triệu chứng: Tiểu tiện đau, hay đái vội vàng, nước tiểu có màu vàng đỏ, thường có kiêm chứng đắng miệng, đau sườn, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch huyền sác hoặc huyền hoạt.

Điều trị: Thanh nhiệt, lợi thấp thông lâm.

Bài thuốc thường dùng: Trầm hương tán hoặc bài Bát chính tán: Trầm hương 20g, hoạt thạch 20g, thạch vi 20g, cam thảo 10g, vương bất lưu hành 20g, đương qui 20g, trần bì 10g, bạch thược 16g, đông quì tử 10g. Bài Bát chính tán xa: tiền tử 20g, cù mạch 12g, hoạt thạch 30g, chi tử 10g, mộc thông 8g, biển súc 12g, cam thảo 4g, đại hoàng 8g. Ngày uống một thang sắc uống 3 lần trong ngày, uống trước khi ăn.

TTND.BS. Nguyễn Xuân Hướng